Page 296 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 296
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU SINH
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
TS. Nông Văn Ngoan
Những kết luận mới của luận án
1. Về cơ sở hình thành, đặc điểm, diễn tiến của hiện tƣợng song ngữ
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam được hình thành trên những
cơ sở lịch sử, xã hội, tư tưởng văn hóa, văn học và thẩm mĩ nhất định. Song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam là song ngữ bất bình đẳng. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam nằm trong bối cảnh chung của các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán
trong khu vực như Triều Tiên/Hàn Quốc và Nhật Bản. Diễn tiến của hiện tượng song ngữ
trong văn học trung đại Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn mở đầu, từ thế
kỷ X – XIV với các sáng tác bằng chữ Hán văn ngôn là chủ yếu. Đến cuối thế kỉ XIII, lịch
sử văn học đã ghi nhận việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn chương. Kể từ đây, văn
học Việt Nam trung đại Việt Nam tồn tại song song hai bộ phận văn học: một bộ phận
viết bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và một bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc là
chữ Nôm. Giai đoạn hai, từ thế kỷ XV – XVII, đây là giai đoạn phát triển nở rộ của hiện
tượng song ngữ với việc Việt hóa thành công thể thơ Đường luật. Giai đoạn này cũng
xuất hiện của nhiều thi tập lớn viết bằng chữ Nôm như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi;
Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân
quốc ngữ thi tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giai đoạn cuối, từ thế kỷ XVIII –
hết thế kỷ XIX, đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tượng song ngữ với sự ưu
thắng của tiếng Việt, chữ Nôm.
2. Về loại hình tác giả của hiện tƣợng song ngữ
Hiện tượng song ngữ thể hiện ở loại hình tác giả: vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa
sáng tác bằng chữ Nôm. Loại hình tác giả song ngữ có những đặc điểm như xuất thân nho
học và khoa bảng; sống trong bối cảnh lịch sử, xã hội buổi giao thời; gắn với loại hình
nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật; có tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của nho gia. Có
sự đa dạng và thống nhất về kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam: có
kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính luận như Nguyễn Trãi; kiểu tác giả song ngữ trữ
tình - triết lí như Nguyễn Bỉnh Khiêm; kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự như Nguyễn
Du và kiểu tác giả song ngữ trữ tình - trào phúng, liên văn bản như Nguyễn Khuyến. Sự
thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ cho thấy các tác giả coi sáng tác chữ
Hán và chữ Nôm đều là sáng tác nghệ thuật đích thực.
3. Về thể loại, ngôn ngữ của hiện tƣợng song ngữ
Trên phương diện thể loại, hiện tượng song ngữ xuất hiện ở cả văn học chức năng
và văn học nghệ thuật với mức độ và quy mô không giống nhau. Ở phương diện ngôn