Page 115 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 115
110
c. Thể lực: Kết quả nghiên cứu thể lực thể hiện những đánh giá về các chỉ số
trung bình cũng như nhịp độ tăng trưởng như sau:
Bật xa tại chỗ, với nam (đầu kì I bật xa tại chỗ trung bình là 247.4215.28cm. Cuối
kì II bật xa tại chỗ trung bình là 259.399.08cm. Sau một năm thành tích bật xa của nam
SV có tăng lên đáng kể, sự khác biệt này có nghĩa với t = 8.84 > t bảng ở ngưỡng xác xuất
tính
p<0.05), với nữ (đầu kì I bật xa tại chỗ trung bình là 190.6318.79cm. Cuối kì II bật xa tại
chỗ trung bình là 206.2511.26cm. Sau một năm bật xa tại chỗ của nữ SV có tăng lên sự
khác biệt này có ý nghĩa với t tính = 3.96 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<0.05).
Nằm ngửa gập bụng 30s, với nam (đầu kì I nằm ngửa gập bụng 30s trung bình là
21.701.77lần. Cuối kì II nằm ngửa gập bụng 30s trung bình là 23.850.77lần. Sau một
năm thì nằm ngửa gập bụng 30s của nam SV có tăng lên đáng kể sự khác biệt này có nghĩa
với t = 8.72 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<0.05), với nữ (đầu kì I nằm ngửa gập bụng 30s
tính
trung bình là 17.502.88lần. Cuối kì II nằm ngửa gập bụng 30strung bình là 21.881.64
lần. Sau một năm nằm ngửa gập bụng 30s của nữ SV ngành GDTC khóa 14 có tăng lên
sự khác biệt này có ý nghĩa với t tính = 8.22 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<0.05).
Chạy 30m XPC, với nam (đầu kì I chạy 30m XPC trung bình là 4.170.17s. Cuối
kì II chạy 30m XPC trung bình là 4.060.12s. Sau một năm thì chạy 30m XPC của nam
SV có tăng lên đáng kể sự khác biệt này có nghĩa với t = 10.64 > t bảng ở ngưỡng xác xuất
tính
p<0.05), với nữ (đầu kì I chạy 30m XPC trung bình là 5.360.15s. Cuối kì II chạy 30m
XPC trung bình là 5.200.08s. Sau một năm chạy 30m XPC của nữ SV có tăng lên sự
khác biệt này có ý nghĩa với t tính = 3.49 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<005).
Cooper test (km), với nam (đầu kì I Cooper test trung bình là 2.190.06km. Cuối kì
II Cooper test trung bình là 2.270.02km. Sau một năm Cooper test của nam SV có tăng
lên đáng kể sự khác biệt này có nghĩa với t = 10.25 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<0.05), với nữ
tính
(đầu kì I Cooper test trung bình là 1.700.09km. Cuối kì II Cooper test trung bình là
1.780.07km. Sau một năm Cooper test của nữ SV có tăng lên sự khác biệt này có ý
nghĩa với t tính = 7.51 > t bảng ở ngưỡng xác xuất p<0.05).
Ta thấy, qua một năm tập luyện các test thể lực của SV tăng lên rõ rệt có ý nghĩa
thống kê, thành tích của SV ngành GDTC khóa 14 Trường Đại học Tây Nguyên đã có sự
tăng trưởng.
2.6.3. Nhận xét về thực trạng và sự biến đổi một số chỉ số HT-CN-TL của SV
ngành GDTC khóa 14 Trƣờng Đại học Tây Nguyên sau một năm tập luyện
a. Về hình thái: Với nam (ở đầu kì I chỉ số trung bình là 169.88cm, sau một năm là
171.09cm), với nữ (ở đầu kì I chỉ số trung bình là 161.63cm, sau một năm là 163.00cm). Đối
chiếu với sự tăng trưởng theo từng thời kì của thể chất người Việt Nam qua các công
trình nghiên cứu từ 6-20 tuổi thì chiều cao của nam là 165.8cm, nữ là 155.3cm. Như vậy,
chiều cao của SV ngành GDTC khóa 14 tăng lên sau một năm tập luyện cao hơn hằng số
sinh học của người Việt Nam và SV không chuyên (nhưng lại thấp hơn SV chuyên sâu
Karatedo Khoa Huấn luyện thể thao, Trường Đại học Thể dục thể thao TP. Hồ Chí
Minh). Điều đó cho thấy, tập luyện TDTT đã có tác động làm phát triển về chiều cao của
các SV.