Page 132 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 132

127


               văn học trung đại Korea được sáng tác bằng ba loại văn tự là chữ Hán, chữ Y - Du, chữ
               Hangul (chữ Hàn). Tuy nhiên, chữ Y - Du lúc đầu được sử dụng trong phạm vi khá rộng
               nhưng sau đó chỉ được dùng trong các giấy tờ công và tư còn “về mặt văn học mà nói,

               chữ Y - Du chỉ xuất hiện trong các bài ca dân gian (hương ca) của Shilla và Koryo mà
               thôi, còn các tác phẩm văn học bằng chữ Y - Du hầu như không có”         (14) . Vì thế, văn học
               trung đại Korea, trong thực tế là nền văn học song ngữ với việc sử dụng cùng một lúc cả
               chữ Hán và chữ Hangul.
                    Hiện tượng song ngữ chỉ xuất hiện từ giai đoạn Trung kỳ trung đại trong văn học
               Korea. Giai đoạn này văn học chữ Hán rất phát triển. Hàng loạt các bộ sử được viết bằng
               chữ Hán để ca tụng triều đại Lý và để củng cố lòng trung thành của sĩ dân đối với triều
               đình: Thái  Tổ  thực  lục,  Triều  Tiên  vương  triều  thực  lục,  Xuân  thu  quán,  Cao  Ly

               sử… Loại ca nhạc gắn với thơ gọi là “Nhạc chương” thể hiện rõ tính chất tụng ca của thể
               loại này, nổi bật là các tác phẩm: Tân đô ca (Sindo ka) của Trịnh Đạo Truyền/ Chong To-
               jon, Long phi ngự thiên ca (Yongbi ochon ka) của Trịnh Lân Chỉ/ Chong In-ji v.v. Tuyển
               tập vĩ đại nhất về thơ văn chữ Hán của người Triều Tiên là bộ Đông văn tuyển (Dongmun
               son) do Từ Cư Chính/ So Ko-jong biên tập hoàn thành vào năm 1478.
                    Văn  tạp  ký,  nhàn  đàm  của  các  nhà  nho  phát  triển  mạnh,  đáng  chú  ý  là  các  tác

               phẩm: Bút uyển tạp ký của Từ Cư Chính/ So Ko-jong, Dung Trai tùng thoại của Thành
               Hiện/ Song Hyon, Bại quan tạp ký của Ngư Thúc Quyền/ O Suk-kwon. Tập truyện truyền
               kỳ Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh được truyền đến Triều Tiên từ rất sớm, từ
               đó Kim Thời Tập/ Kim Si-sup đã phóng tác ra thành tập truyện truyền kỳ Triều Tiên: Kim
               Ngao tân thoại (Kum o sinhwa). Tác phẩm này cũng được coi là tiểu thuyết Hán văn đầu
               tiên của văn học Triều Tiên.
                    Bên cạnh đó, văn học viết bằng chữ Hàn (Hangul) cũng đạt được những thành tựu rất

               đáng kể. Hai thể thơ dân tộc là Sijo/ Thời điệu và Kasa/ Ca từ đều xuất hiện vào cuối giai
               đoạn Cao Ly/ Koryo (Sơ kỳ trung đại), nhưng phải đến giai đoạn Triều Tiên/ Choson
               (Trung kỳ trung đại) mới thực sự phát triển. Kasa (ca từ) có thể coi như một loại từ khúc
               của người Triều Tiên. Nhà thơ kasa nổi danh nhất giai đoạn này là Trịnh Triệt/ Chong
               Chol (1536-1593), tác giả của những bài kasa bất hủ: Quan Đông biệt khúc, Tư mỹ nhân
               khúc, Tục mỹ nhân khúc… Thể thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn dân tộc Triều Tiên là sijo/

               thời điệu, với tên tuổi của các nhà thơ: Lý Hoảng/ Yo Hwang (1501-1570), Lý Nhĩ/ Yi
               I (1536-1584),  Phác  Nhân  Lão/  Pak  Il-lo  (1561-1643),  Thân  Khâm/  Sin  Hum  (1566-
               1628),  và  nhất  là  nữ  sĩ  Hoàng  Chân  Y/  Hwang  Chin  Y(1506-1544)  và  nhà  thơ  Doãn
               Thiện Đạo/ Yun Son-do (1587-1671), hai thi sĩ đã đưa thể thơ này lên đến đỉnh cao.
                    Hiện tượng song ngữ trong văn học Triều Tiên hậu kỳ trung đại diễn ra khá sôi nổi.
               Văn học viết bằng ngôn ngữ bản địa với các thể thơ sijo/ thời điệu và kasa/ ca từ thay đổi
               theo hướng tăng cường tính hiện thực, thể hiện những rung cảm chân thực trong lòng
   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136   137