Page 133 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 133
128
người, nhất là về tình yêu, và cả những khát khao tính dục. Các nhà thơ tiêu biểu là: Kim
Thiên Trạch/ Kim Chon-taek, Kim Thọ Trường/ Kim Su-jang và cả một số xuất thân từ
ca kỹ - những “Kỹ sinh” theo cách gọi Triều Tiên. Tiểu thuyết chữ Hán Hậu kỳ trung đại
có những thay đổi quan trọng. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng thực học (sirhak), tiểu thuyết
chữ Hán tăng cường tính hiện thực, sử dụng loại Hán văn giản dị, hướng vào việc phê
phán tính chất ăn bám của tầng lớp “Lưỡng ban”, tiêu biểu là các Truyện Hứa Sinh
truyện, Hổ Sất Lưỡng ban truyện, Mẫn Ông truyện của Phác Chi Nguyên/ Pak Chi-won.
Tiểu thuyết viết bằng chữ Hangưl xuất hiện từ cuối thời Trung kỳ trung đại với tác phẩm
đầu tiên là Hồng Cát Đồng truyện (Hong Kil-tong chon) của Hứa Quân/ Huh
Gyun (1569-1618) và tác phẩm gây được tiếng vang lớn là tiểu thuyết thần tiên Cửu vân
mộng của Kim Vạn Trùng/ Kim Man-jung (1637-1692). Tuy nhiên phải đến Hậu kỳ
trung đại thì tiểu thuyết bằng tiếng Hàn mới thực sự nở rộ: Tường Hoa Hồng Liên truyện,
Thẩm Thanh truyện, Ngọc lâu mộng, Thục Hương truyện … Theo Đoàn Lê Giang, “tác
phẩm được yêu thích nhất là tiểu thuyết kỹ nữ Xuân Hương truyện. Các truyện trên đều
có chủ đề phê phán xã hội, phê phán sự kỳ thị giàu nghèo, sang hèn, ca ngợi tình yêu tự
do. Văn học chữ Hàn Hậu kỳ trung đại của Korea chứng kiến sự lên ngôi của một thể loại
văn học diễn xướng có tính chất đại chúng rõ nét là thể hát kể pansori, tức là “ca truyện”
theo cách gọi của người Triều Tiên. Pansori là một loại truyện kể xen kẽ với thơ được
ngâm kể kèm theo điệu bộ, tiêu biểu là các tác phẩm: Truyện nàng Xuân Hương (phỏng
theo tiểu thuyết cùng tên), Truyện nàng Shim Cheong, Truyện Heung Boo v.v” (15) .
2.3. Đặc điểm chung và riêng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại
các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán
2.3.1. Các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán đều có hiện tượng song tồn hai
bộ phận văn học: bộ phận viết bằng Hán văn và bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Ở
Việt Nam là văn học học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm, ở Korea là
văn học chữ Hán và văn học viết bằng chữ Y – Du và chữ Hàn (Han-gưl), trong văn học
Nhật Bản là chữ Hán và chữ kana.
2.3.2. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại của Việt Nam, Korea và Nhật
Bản là song ngữ bất bình đẳng. Ở Việt Nam, khi viết về những đề tài cao cả, tao nhã
người ta thường dùng chữ Hán còn khi viết về những đề tài bình dị, đời thường thường
dùng chữ Nôm. Trong khi đó ở Korea, Song ngữ trong văn học trung đại Korea cũng là
song ngữ bất bình đẳng. Chữ Hán là văn tự chính thức còn chữ Hàn là Am - gưl (chữ
phụ), chữ Hán là “chân thư” còn chữ Hàn là “ngạn văn” (chữ viết trong dân gian). “Chữ
Hàn được sử dụng nhiều trong tiểu thuyết, ca từ, thư từ, nhật ký, tức những thứ được coi
là giá trị thấp và không chính thức. Vì vậy văn học Korea có thể được chia ra thành văn
học của tầng lớp trên, sáng tác bằng chữ Hán và của tầng lớp dưới bao gồm cả phụ nữ,
sáng tác bằng chữ Hàn” (16) . Văn học Nhật Bản, chữ kana lại để dành riêng cho phụ nữ,