Page 127 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 127
122
HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI CÁC NƢỚC VIỆT
NAM, KOREA VÀ NHẬT BẢN DƢỚI GÓC NHÌN SO SÁNH
TS. Nông Văn Ngoan
1. Hiện tượng song ngữ trong văn học là hiện tượng sử dụng một ngôn ngữ vay
mượn từ nước ngoài bên cạnh ngôn ngữ bản địa trong việc sáng tác văn chương. Đây là
một hiện tượng khá phổ biến của văn học trung đại nhiều nước trên thế giới. Theo Trần
Đình Sử: “Ở các nước phương Tây văn học tiếng Latinh tồn tại phổ biến như một thứ
tiếng quốc tế được nhiều quốc gia thừa nhận, bên cạnh đó mỗi nước có văn học phương
ngôn dạng viết hay truyền miệng (Pháp, Ý, Anh, Đức…). Ở phương Đông, tiếng Hán,
đúng hơn chữ Hán đóng vai trò tương tự trong các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
(1)
Tiên, Việt Nam, bên cạnh thứ chữ riêng của mỗi nước” . Trong khi đó, khái niệm “Khu
vực văn hóa chữ Hán” được sử dụng rộng rãi để chỉ khu vực gồm các nước chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Hoa từ sớm và lâu dài như Việt Nam, bán đảo Korea (Triều Tiên -
Korea) và Nhật Bản. Trong bài viết này chúng tôi trình bày về hiện tượng song ngữ trong
văn học trung đại các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán theo kiểu so sánh loại
hình.
2.1. Về khái niệm song ngữ
Song ngữ là hiện tượng khá phổ biến, nhất là ở thời trung đại. Khái niệm này được
đề cập đến trong khá nhiều tài liệu, chúng tôi chỉ xin đưa ra những cách định nghĩa của
những tác giả tiêu biểu trong Ngôn ngữ học.
Tác giả Diệp Quang Ban định nghĩa về hiện tượng song ngữ như sau: “Song ngữ
(bilingualism): Trong xã hội học, hiện tượng sử dụng hai (hay hơn hai) ngôn ngữ ở một
(2)
cá nhân hay ở một cộng đồng ngôn ngữ, có khi cũng gọi là đa ngữ (multilingualism)” .
Tác giả Nguyễn Như Ý định nghĩa trong Đại từ điển Tiếng Việt về song ngữ “(Hiện
(3)
tượng, trạng thái) được sử dụng ngang nhau hai ngôn ngữ trong giao tiếp” . Trong Từ
điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, cũng khái niệm này tác giả định nghĩa là: “Sự
tinh thông hoàn hảo như nhau hai ngôn ngữ, sự nắm vững hai ngôn ngữ được sử dụng
(4)
trong những điều kiện giao tiếp khác nhau, như ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ văn học” .
Tác giả cũng dẫn ra trong cuốn từ điển hai cách định nghĩa khác. Cách thứ nhất, theo
Phan Ngọc, hiện tượng song ngữ có được khi “một người mà tiếng mẹ đẻ là A, nhờ biết ít
nhiều một ngôn ngữ B nên có thể trao đổi với một tộc người khác chỉ nói ngôn ngữ B.
Nhờ biết được hai ngôn ngữ như vậy cho nên anh ta được gọi là một người song ngữ và
(5)
sự giao tiếp của anh ta là sự giao tiếp song ngữ” . Cách thứ hai là của tập thể các tác giả
cuốn Ngôn ngữ học: khuynh hướng, lĩnh vực, khái niệm: “Song ngữ (bilinguisme) là hiện
tượng một người hay một nhóm người nắm và sử dụng được hai hệ thống ngôn ngữ độc