Page 155 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 155

150


               tiếng nói bình quyền tiếng nói đòi giải phóng cái tôi cá nhân nữ  giới. Dám bày tỏ những
               những nhu cầu thầm kín đó là tiếng nói đòi quyền bình đẳng về giới của người phụ nữ
               sau những gì bị kiềm tỏa, chế ngự e ngại bởi những qui định vô hình của xã hội. Khi xã

               hội Việt Nam vẫn đề cao những mẫu phụ nữ truyền thống thì việc vượt thoát khỏi những
               điều cấm đoán kiêng kị đó là tư tưởng vô cùng mới mẽ và tiến bộ của Võ Thị Xuân Hà.
               Bằng việc để cho nhân vật nữ bộc lộ những cảm giác của thân thể nữ đó là nỗi đau khi
               mang thai hay sinh nở, nỗi cô đơn và khao khát trong quan hệ vợ chồng, nỗi cô độc sau
               những ảo tưởng, phiêu tình ái, sự tủi thân…Võ Thị Xuân Hà đã không chỉ phản kháng lại
               diễn ngôn nam quyền mà còn khẳng định lối viết nữ ở chiều sâu mang đậm màu sắc phái
               tính, khẳng định tiếng nói của giới nữ cũng như phơi bày bí ẩn cần được khám phá, lắng
               nghe và thấu hiểu. Dưới cái nhìn xét lại của chủ thể nữ hình tượng Nẫm đã bị giải thiêng

               (một anh hùng – một liệt sĩ lại được miêu tả với những câu văn hết sức nhạy cảm: “Em
               vừa nhìn thấy anh Nẫm về. Anh ấy hôn con mình và xem em cởi truồng” [6, tr.263]), còn
               Thản thì có phần lép vế. Trước đây hình ảnh người đàn ông luôn đi kèm chất nam tính
               mạnh mẽ, vì thế nên họ đóng vai trò chủ chốt trong gia đình và xã hội. Họ đảm đương
               một trách nhiệm nặng nề là tổ chức cuộc sống gia đình. Còn người phụ nữ chỉ “dựa bóng
               tùng quân”, đảm đang việc nội trợ, nuôi dạy con cái. Thế nhưng, tư tưởng này trong Đàn

               sẻ ri bay ngang rừng đã bị lật đổ. Diễm khá chủ động trong việc quyết định những công
               việc gia đình và đặc biệt trong đời sống tình dục. Thản phải thừa nhận nàng là loài cáo:
               “Em đúng là loài chồn cáo. Em là nàng cáo Ecmơlin”. Rõ ràng vị trí trung tâm của người
               đàn ông đã bị xâm lấn và đảo ngược. Nữ giới đang dần vươn lên khẳng định vị thế trong
               tình yêu, tình dục và cuộc sống hôn nhân. Trong sự lên tiếng đó, tự nhiên đã đóng một
               vai trò quan trọng trong việc thức giấc bản lĩnh và sức phản kháng của nữ giới. Tính cách
               bướng bỉnh hoang dại của Diễm được được miêu tả như là một phần của tự nhiên. Để

               thỏa mãn tận cùng, không phải là Thản hay Nẫm mà chính những trận mưa rừng, nó có
               thể mang lại cho cô một nguồn sống mới, cô cười hú hét, hứng nước mưa và để thịt da
               trắng ngần đẫm nước mưa. Mưa có thể làm Diễm “dịu cơn khát bừng bừng trong ruột”,
               mưa là sự hồi sinh: “Sau cơn mưa, rừng xanh mỡ. Những đọt non bật lách khỏi vỏ cây xù
               xì, nhú ra đón những tia nắng muộn” [6, tr.261]. Như vậy, mưa ở đây được miêu tả như là
               nguồn sống, sự tái sinh cho cỏ cây, vạn vật, mưa có thể gột rữa, làm dịu đi nỗi đau của số

               kiếp đàn bà. “Những giọt mưa quất vào da thịt lạnh buốt làm dịu cơn khát tưng bừng
               trong ruột. Tôi cởi quần áo cùng Thản hứng mưa, cười hú hét. Thân mình tôi đẫm nước
               trắng ngần. Da thịt được mưa tưới tắm săn lại nõn nà, làm dịu vết thương vĩnh viễn của
               kiếp đàn bà” [6, tr.261]. Biểu tượng mưa ở đây có sự tương đồng với nữ giới. Sự hòa
               quyền xoắn xuýt giữa hai hình ảnh này tạo nên vẻ đẹp về sức sống mãnh liệt cho nữ giới
               và giới tự nhiên trước mọi thế lực thống trị.
   150   151   152   153   154   155   156   157   158   159   160