Page 265 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 265

tai. Do tin tưởng rằng sử thi có một pháp lực nào đó nên ở một số cộng đồng, trước khi
            diễn xướng và trong quá trình diễn xướng sử thi đều có rất nhiều nghi lễ và những cấm
            kỵ để đảm bảo cho sự bình an của nghệ nhân và khán giả, đảm bảo cho hoạt động diễn

            xướng được tiến hành thuận lợi và đạt được những kết quả mà mọi người mong muốn
            (Viện KHXH Việt Nam, 2009, tr. 324). Dựa vào ý kiến của Triều Qua Kim và kết quả
            khảo  sát,  chúng  tôi  thấy  rằng  về  phương  diện  diễn  xướng  thì  ot  ndrong  của  người
            M‟nông  có  thể  được  diễn  xướng  kèm  theo  các  nghi  lễ  tôn  giáo,  và  trong  khi  diễn
            xướng có kèm theo điệu bộ, cử chỉ. Điều này cho chúng ta thấy rõ được tính chất cổ sơ
            (thần thoại) của sử thi M‟nông, đúng như Võ Quang Nhơn đã viết “về phương thức
            diễn xướng, trong khi sử thi thần thoại là một thành tố trong cơ cấu diễn xướng nghi lễ

            tôn  giáo  dân  gian  thì  sử  thi  anh  hùng  là  một  sinh  hoạt  văn  hoá  thế  tục,  được  diễn
            xướng một cách bình thường, tách rời khỏi nghi lễ tôn giáo” (Võ Quang Nhơn, 1981,
            tr.43).
            2. Giá trị của ot ndrong trong đời sống cộng đồng dân tộc M’nông
            Ot ndrong là bức tranh toàn cảnh, là kho tri thức về cuộc sống của người M‟nông
            thời cổ xưa. Người ta có thể tìm thấy ở đó những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc

            sống sinh hoạt hằng ngày đến những vấn đề lớn lao về nhân sinh quan và thế giới
            quan  của  người  M‟nông.  Khi  nghe  hát  kể  ot  ndrong,  người  diễn  xướng  cũng  như
            người nghe đều không coi đó chỉ đơn thuần là trò giải trí, mà còn là những bài học về
            lịch sử của dân tộc mình. Khi diễn xướng, người nghệ nhân không hề có ý  thức là
            mình nói lên tiếng nói của tâm tư, tình cảm cá nhân, mà đó là tiếng nói chung của tư
            tưởng, tình cảm của cả cộng đồng.
                    Hiện nay, theo khảo sát của chúng tôi thì hầu như những người M‟nông lớn tuổi
            cũng đều thuộc một số câu ot ndrong hay tên của các nhân vật nào đó trong các tác phẩm

            sử thi. Nhiều câu ot ndrong đã trở thành thiêng liêng trong cuộc sống của họ. Những câu
            mà thủ lĩnh Tiăng dạy các thành viên thị tộc ở trong ot ndrong đã trở thành những câu
            châm ngôn quen thuộc mà người thợ săn nào cũng phải biết trước lúc vào rừng:
                                  Săn bò rừng không được nói tên chỉ được gọi là con đỏ
                                  Săn trâu rừng không được nói tên chỉ gọi là con sừng.

                    Ot ndrong còn phản ánh rất nhiều vấn đề về đời sống tinh thần của người M‟nông
            mà qua đó chúng ta thấy được những tri thức, kinh nghiệm sống của họ. Đã thành tập tục,
            trước  lúc đi đâu xa hay  trước khi thực  hiện  một công việc quan  trọng nào  đó,  người
            M‟nông thường cúng khấn thần linh mong thần linh che trở, phù hộ cho họ. Mỗi khi lên
            đường thực hiện một công việc nào đó, dọc đường đi, nếu gặp chim sẻ kêu phía bên trái
            thì người M‟nông cho rằng sẽ gặp may mắn, còn nếu gặp cây đổ sẽ không tránh khỏi trắc
            trở, rủi ro. Điều này cũng được thể hiện trong các tác phẩm ot ndrong:
                                          Cây guih ngã bên phía tay phải

                                         Cây sa ngã bên phía tay trái
                                         Dong nói với Ndru rằng
                                         Những cái xảy ra là điềm xấu…
                                                        (Đỗ Hồng Kỳ, 2008, tr.258)
   260   261   262   263   264   265   266   267   268   269   270