Page 262 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 262
NGHỆ NHÂN HÁT KỂ SỬ THI VÀ VAI TRÕ
CỦA OT NDRONG TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC M’NÔNG
TS. Triệu Văn Thịnh
Sử thi có giá trị đặc biệt trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và có tính
nguyên hợp cao; ngoài những giá trị về văn học nghệ thuật nó còn chứa đựng những tư
liệu quý về lịch sử, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán v.v...
Sử thi M‟nông (ot ndrong) được phát hiện năm 1988.Với những kết quả sưu
tầm và nghiên cứu đã đạt được có thể khẳng định dân tộc M‟nông có khối lượng sử thi
đồ sộ vào bậc nhất trong khu vực và thế giới.Trong bài viết này, chúng tôi đi vào khảo
sát về nghệ nhân hát kể và vai trò, giá trị của sử thi trong đời sống cộng đồng dân tộc
M‟nông để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm giúp cho công tác bảo tồn, gìn giữ và
đồng thời phát huy được những giá trị to lớn của nó trong tiến trình hội nhập và phát
triển đất nước.
1. Nghệ nhân hát kể sử thi M’nông
Trong quá trình diễn xướng sử thi, nghệ nhân dân gian có vai trò hết sức
quan trọng. Họ chính là người chuyên môn hoá đầu tiên công việc sáng tạo và biểu
diễn nghệ thuật. Tuy văn học dân gian là sáng tác của tập thể nhưng bản chất của
tập thể đó là tập hợp của những cá nhân tài năng, có khả năng nghệ thuật vượt qua
số đông quần chúng còn lại.
Nghệ nhân ot ndrong là người có trí nhớ rất tốt, có thể nói là phi thường (có
thể so sánh với các nghệ nhân hát kể sử thi của thế giới, tiêu biểu như nghệ nhân
Trát Ba, người Tây Tạng, Trung Quốc đã hát kể được 25 truyện Cách Tát Nhĩ). Họ
có thể thuộc hàng vạn câu ndrong và diễn xướng trong nhiều ngày, tiêu biểu như
Điểu Mpiơih, Điểu Klưt, Điểu Klung… Các nghệ nhân cho biết, muốn nắm bắt
thành thạo các sử thi, thông thường họ phải trải qua một quá trình học tập và luyện
tập tương đối dài. Xuất phát từ việc tìm hiểu bí mật tại sao các nghệ nhân mù chữ
lại có thể ghi nhớ và lưu giữ hàng trăm ngàn câu thơ, các nhà nghiên cứu đã tiến
hành điều tra, phân tích và nghiêng về khuynh hướng cho rằng, mặc dù các câu
chuyện sử thi có hàng ngàn điểm khác biệt, nhưng “mô hình câu chuyện” của
chúng lại chỉ có hạn và phương thức gắn kết môtíp của câu chuyện cũng có một số
quy luật để tuân theo. Chính các “chi tiết lặp lại”, những “khuôn mẫu đúc sẵn”
được tạo ra từ rất nhiều “thể thức sử thi” này đã giúp nghệ nhân nắm bắt thành thạo
các kỹ xảo để kể lại câu chuyện một cách thuần thục và lưu loát.
Theo khảo sát của chúng tôi, nghệ nhân hát kể ot ndrong không phải là
những nghệ nhân chuyên nghiệp, cũng không phải là những nghệ nhân bán chuyên
nghiệp và hát kể ot ndrong chưa phải là một nghề. Họ diễn xướng là theo yêu cầu
của cộng đồng và nhu cầu nội tại của bản thân. Họ không hưởng riêng một quyền
lợi vật chất nào, ngoài phần thưởng vô giá là lòng tin yêu và sự kính phục của cộng
đồng (Đỗ Hồng Kỳ, 2008, tr.193). Họ hát kể sử thi là để đáp ứng nhu cầu thưởng
thức của dân làng, cũng có khi chỉ đơn giản là hát trong lúc rảnh rỗi, khi lao động
sản xuất để thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bản thân; và cũng có thể được các thầy