Page 263 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 263

cúng, thầy bói vận dụng vào việc tang ma, bói toán, cúng đoán bệnh (tất nhiên là
            chỉ mượn một số lời hát, còn giọng điệu, cách hát, động tác đã khác xa “bản gốc”).
            Tóm lại, nghệ nhân diễn xướng ot ndrong là những người lao động bình thường.

            Trong cộng đồng người M‟nông chưa xuất hiện lớp người riêng biệt, chuyên sống
            bằng nghề hát kể sử thi như các nghệ nhân chuyên nghiệp của sử thi Hy Lạp. Diễn
            xướng  ot  ndrong  không  phải  là  một  nghề,  càng  không  phải  hoạt  động  biểu  diễn
            kiếm lời. Hiện nay hầu hết các nghệ nhân đều đã lớn tuổi và gần như không còn sức
            để hát kể nữa. Những năm 2013, 2014 chúng tôi đã nhiều lần đến xã Đăk Ndrung,
            huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông gặp nghệ nhân Điểu Klưt và đề xuất ông ot cho
            chúng tôi nghe nhưng ông chỉ hát được vài câu rồi không thể hát tiếp được nữa.

            Ông cho biết là mệt lắm, không còn sức để “kéo” nữa. Mỗi lần như vậy chúng tôi
            không khỏi băn khoăn nghĩ về một nghệ nhân tài hoa, một “báu vật sống” đang gìn
            giữ những giá trị văn hoá tộc người chẳng bao lâu nữa sẽ về với tổ tiên…
                    Trong  cuốn  sách  Văn  học  dân  gian  các  dân  tộc  ít  người  ở  Việt  Nam,  Võ
            Quang Nhơn đã nói, môi trường diễn xướng của sử thi thần thoại luôn kèm theo các
            nghi lễ tôn giáo. Về đặc điểm này, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong kho tàng

            văn  học  dân  gian  các  dân  tộc  ít  nguời  ở  Việt  Nam  thì  chỉ  có  sử  thi  của  người
            Mường  và  sử  thi  của  người  M‟nông  là  được  dùng  với  ý  nghĩa  thiêng  liêng  này.
            Trong sử thi của người Mường và người M‟nông có nhiều câu, nhiều đoạn được
            dùng để hát kể khi đưa tiễn linh hồn người chết, để bói toán, đoán bệnh. Người diễn
            xướng  sử  thi  trong  lễ  tang  ma  của  người  Mường  là  những  ông  mo,  của  người
            M‟nông là những bơjâu. Trong khi sử thi của các dân tộc khác như khan của người
            Êđê, hơmon của người Bana lại được diễn xướng bởi các nghệ nhân bình thường và
            thường được diễn xướng trong lúc vui chơi, rỗi rãi…

                    Đối với khan Êđê, khi diễn xướng, nghệ nhân chủ yếu chỉ dùng ngôn ngữ và giọng
            điệu để biểu đạt nội dung truyện kể, rất ít khi người nghệ nhân dùng động tác nào đó để
            mô phỏng cử chỉ, hành động của nhân vật. Tuỳ theo nội dung cụ thể của truyện kể mà
            nghệ nhân có giọng kể sao cho phù hợp, nhằm đưa lại hiệu quả nhận thức, thẩm mĩ cao
            nhất cho người nghe. Nhìn chung, hát kể khan được tiến hành theo một quá trình khá đơn

            giản. Khi bắt đầu, giọng nghệ nhân từ thấp lên cao, diễn tả hết một câu, một ý thì giọng
            nghệ nhân ngân dài để ngắt câu, chuyển ý và tiếp đó người nghệ nhân lại trở về giọng kể
            như lúc bắt đầu. Nghệ nhân diễn kể khan đã kết hợp được một cách nhuần nhuyễn giữa
            hát kể khanvới những sắc thái của điệu hát đối đáp và khóc kể để biểu đạt từng sắc thái
            hành động, cảnh ngộ của nhân vật, cảnh sắc thiên nhiên, tiếng chim kêu, tiếng ngựa hí,
            tiếng gọi voi… một cách cuốn hút, hấp dẫn người nghe.
                    Đối với ot ndrong, trước lúc hát kể, nghệ nhân thường tóm tắt nội dung phần
            mình sẽ trình bày và giải thích những chỗ khó hiểu cho người nghe. Xong phần dẫn

            truyện, nghệ nhân nhấp một hơi rượu cần, đằng hắng lấy giọng, rồi cất cao giọng ot
            ndrong. Trong khi hát kể, đôi khi nghệ nhân giơ tay làm điệu bộ để diễn tả hành động
            của nhân vật trong truyện.
                    Khi nghệ nhân hát kể khan, người nghe chủ yếu thấy được sự việc thông qua
            giọng hát kể chứ không phải qua những điệu bộ như khi hát kể ot ndrong của nghệ
   258   259   260   261   262   263   264   265   266   267   268