Page 267 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 267

Họ chia răng bịt một phần cho người chết
                                         Bầu cơm vỡ chia cho Ting một cái
                                         Cái nồi vỡ chia cho Rung một cái

                                                        (Viện KHXH Việt Nam, 2006, tr. 2455)
                    Ot ndrong còn đề cập đến nhiều phong tục, tập quán khác của người M‟nông,
            như khi lấy chiêng, trống ra đánh thì phải làm lễ cúng thần linh; trong gia đình, người
            đàn ông có việc phải đi xa, người phụ nữ ở nhà phải kiêng cữ:
                                         Đàn ông goá vợ mượn cuốc không cho
                                         Đàn ông goá vợ mượn cào cũng kiêng
                                         Đàn bà goá chồng mượn rìu không nên.

                    Trong đời sống của người M‟nông, tín ngưỡng về bùa ngải, ma lai chiếm giữ
            một vị trí cực kỳ quan trọng và họ luôn tin những thứ đó là có thật, chi phối mọi mặt
            đời sống của họ. Trong ot ndrong thì ma lai, bùa ngải và các hình thức bói toán để
            đoán bệnh xuất hiện với một tần suất khá đậm. Việc truyền ma lai cho nhau là nguyên
            nhân của mọi hiềm khích, mọi hận thù, là nguyên nhân dẫn đến những cuộc chiến tàn
            khốc giữa các nhân vật trong tác phẩm sử thi. Vì ma lai mà họ lừa gạt, chém giết lẫn

            nhau.  Hiện nay, bùa ngải vẫn còn tồn tại trong tiềm thức của người M‟nông. Họ vẫn
            tin rằng những câu chuyện về bùa ngải, ma lai là có thật, điều này đã gây ra những câu
            chuyện đau lòng trong cuộc sống của cộng đồng.
                    Trong ot ndrong thì các loại nhạc cụ, chức năng và công dụng của nó đã được
            kể ra một cách khá chân thực và sinh động. Cồng chiêng là loại nhạc cụ vừa đáp ứng
            nhu cầu vui chơi giải trí vừa thực hiện chức năng là chiếc cầu nối giữa cuộc sống của

            con người với thế giới thần linh: Khi làm cỏ lúa người ta đánh chiêng nhỏ; lúc tuốt lúa
            đánh chiêng lớn; nhà có khách thì đánh chiêng yau; kèn mbuăt thường được thổi khi
            có cuộc sống thanh bình, tù và được thổi khi có chiến tranh, gong put được người ta
            treo trên rẫy, âm thanh phát ra có tác dụng đuổi khỉ, đuổi chim… Trong tác phẩm ot
            ndrong còn kể ra khá chi tiết về những nguyên liệu làm nên một loại nhạc cụ nào đó,
            như gâr - một loại trống chỉ đánh trong đám tang và báo động khi có chiến tranh thì

            được mô tả “một bên bịt bằng da bò, một bên bịt bằng da trâu”. Âm thanh của nhiều
            loại  nhạc  cụ  được  biểu  hiện  với  những  âm  sắc  khác  nhau:  tiếng  kèn  mbuăt  thì  du
            dương, dìu dặt; tiếng tù và thì ngân nga, vang vọng; tiếng cồng chiêng thì dồn dập,
            trầm hùng và rộn rã…
                    Ot ndrong còn được dùng để khóc tang (chỉ mượn lời của ot ndrong và được
            khóc hát với một ngữ điệu khác với ot ndrong, họ gọi đó là nhĭm khit); để bói toán,
            đoán bệnh; để cúng khấn thần linh mỗi khi thực hiện một công việc gì đó…Nói tóm lại

            ot ndrong có một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của cộng đồng dân tộc
            M‟nông cả trước đây cũng như hiện nay. Chúng ta cần nâng niu, trân trọng và gìn giữ
            nó, vì vậy chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm để có thể bảo tồn và phát huy được
            những giá trị to lớn của nó.
            3. Kết luận và kiến nghị
                    Dân tộc M‟nông là chủ nhân của một kho tàng văn hoá dân gian vô cùng sinh

            động và độc đáo. Trong kho tàng văn hoá dân gian ấy, nổi trội hơn cả là các tác phẩm
   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271   272