Page 97 - Khoa Sư Phạm | Kỷ yếu hoạt động khoa học Khoa Sư phạm 2016 - 2020
P. 97

92

            họ còn chưa nhìn ra đích và đối tượng để đấu tranh. Điều này là hiển nhiên khi mà ngay
            chính tác giả vẫn còn ủng hộ cho cái gọi là gia đình truyền thống. Gia đình ấy gắn với
            hôn nhân sắp đặt, ngay cả khi chế độ gia đình mâu thuẫn với quyền lợi của cá nhân, thì
            các nhân vật vẫn lựa chọn đi theo tiếng gọi của bổn phận đối với gia đình.

                     Trong Tố Tâm, nhân vật được miêu tả theo quan niệm con người đạo lí. Vẻ đẹp
            của Tố Tâm được đánh giá theo tiêu chuẩn “công, dung, ngôn, hạnh” của thẩm mĩ phong
            kiến. Sắc đẹp của nàng là “thứ đẹp thanh đạm làm cho người ta kính yêu như một bức nữ
            thần” chứ không phải “thứ đẹp nồng nàn làm cho người ta ham muốn” [11, tr.54]. Kết
            thúc thư gửi cho Đạm Thủy, nàng thường ghi “Kính lạy” hoặc “Tố Tâm bái”, được tác
            giả khen ngợi: “đem dùng với nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi

            ngay, đem dùng vào cảnh vợ chồng thì đẹp đôi thành vợ thuận, vợ thuận tức là mẹ hiền”
            [3, tr.45]. Với ý thức “mình là con nhà nề nếp, phận đào tơ phải giữ ngọc gìn vàng”, tức
            là phải giữ cho mình tự nhiên, trang nhã nên Tố Tâm “không muốn phô tính tình của
            mình ra”, lúc nào cũng “cố giữ vẻ ngoài tự nhiên như không”; “trong lòng có khi lửa tình
            chợt nhóm cũng phải nén xuống ngay mà không dám để lộ cho nhau biết” [11, tr.61].
            Những lúc hẹn hò, dường như “vũ trụ chỉ có hai người”, tình yêu của họ vẫn tách rời thú
            vui thân xác, thuần thúy tinh thần. Họ yêu nhau vì: “phục nhau về việc, cảm nhau về tình,
            bởi những bức thư hay, câu chuyện thú, còn sắc đẹp chỉ là giúp thêm vào mà thôi thì có

            thể xa tình dục được” [11, tr. 88]. Vì thế, tình yêu trong truyện chỉ được miêu tả qua
            những rung cảm tâm hồn mà chưa có những rung động nhục thể, hoàn toàn thiếu vắng
            cảm giác thân thể. Sau này, vẻ đẹp của các nhân vật nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
            như Lan (Hồn bướm mơ tiên), Liên (Gánh hàng hoa), Mai (Nửa chừng xuân) đều được
            tiếp tục miêu tả theo quan niệm con người đạo lí này.
                    Tố Tâm, dù yêu Đạm Thủy hết sức sâu sắc: “đã yêu anh thì không thể yêu ai được

            nữa”, nhưng nàng đã không cưỡng lại cuộc hôn nhân sắp đặt của Đạm Thủy. Đôi chỗ, tác
            giả để lộ mục đích giáo huấn khá rõ, đã biến nhân vật thành “cái loa” phát ngôn cho tư
            tưởng “nam tôn nữ ty”, cho lí tưởng “công danh áo mũ” của giai cấp phong kiến: “Em là
            phận gái, cái chức phẩm đối với đời, có cũng hay mà không cũng được… ai trách chi
            "nữ nhi nan hóa", nhưng anh là bậc nam nhi hai vai nghĩa vụ, (…) anh nên nhớ rằng cái
            thân anh không phải là của một mình anh, phải làm việc cho nhà, cho nước, cho xã hội…
            Làm nam nhi có hai chữ chung tình cũng không gọi là đủ được” [11, tr.92-93]. Đối với

            chồng, một người mà nàng chỉ kính chứ không yêu, Tố Tâm không quên bổn phận “phu
            xướng, phụ tùy” của một người vợ: “nếu giời còn để em sống thì em đem hết nền giáo
            dục của em mà hầu hạ tân lang em như một tôi tớ” [11, tr.124]. Như thế, nàng đã hi sinh
            quyền được yêu, được hạnh phúc của cá nhân để thực hiện chữ “hiếu” đối với cha mẹ,
            chữ “nghĩa” đối với chồng. Cho đến lúc từ giã cõi đời, tác giả vẫn mượn lời nàng nhắn
            với  những  cô  thiếu  nữ  “đừng  theo  em  mà  đi  vào  một  lối”,  để  khỏi  chuốc  lấy  kết

            cục:“Đây là mồ một người bạc mệnh chết vì hai chữ ái tình” [11, tr.134].
                    Đạm  Thủy  được  giới  thiệu  là  một  “thanh  niên  tân  tiến”,  sinh  viên  trường  Cao
            đẳng, nhưng so với Tố Tâm, chàng chỉ là cái bóng mờ nhạt, ý thức “tòng thuộc” của
            chàng đối với gia đình còn mạnh hơn cả Tố Tâm. Trong thế giằng co giữa lựa chọn tình
            yêu hay tuân thủ đạo đức truyền thống, Đạm Thủy đã chọn cách “lấy lý hóa tình”, phục
   92   93   94   95   96   97   98   99   100   101   102